Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thanh Hải
Xem chi tiết
Bạch Hà An
18 tháng 2 2016 lúc 10:22

Trả lời câu hỏi

1. Tâm trạng và tính cách của Lưu Bị khi phải ở nhờ Tào Tháo

Lưu Bị có chí làm việc lớn nhưng khi thời cơ chưa đến đành phải nương nhờ Tào Tháo. Vốn là kẻ đa mưu túc chí nên Tào Tháo đã phần nào đoán được ý của Lưu Huyền Đức. Lưu Huyền Đức không phải không biết điều này, vì thế trong thời gian nương nhờ Tào Tháo, Lưu Bị hành sự vô cùng cẩn trọng, song có thể nhận thấy tâm trạng của Lưu Bị vẫn rất lo lắng, hoang mang. Khi bị Tào Tháo triệu tập bất ngờ, Huyền Đức "sợ tái mặt". Lúc ngồi uống rượu, Lưu Bị lại càng dè dặt. Cũng may ở tình huống cuối cùng ( khi đánh rơi thìa và đũa), Lưu Bị đã có được một cách ứng phó thông minh, tránh được nghi ngờ của Tào Tháo

Qua những biểu hiện trên đây, có thể nói, Lưu Bị là con người của sự đức độ, bao dung, của lòng kiên nhẫn và sự khôn ngoan.

2. Qua các đối xử với Lưu Bị và cách đánh giá những nhân vật anh hùng (những người mà Lưu Bị đề xuất), có thể đánh giá về tính cách của Tào Tháo như sau :

- Trong cuộc đối ứng với Lưu Bị, Tào Tháo đã chứng tỏ rất rõ sự kiêu căng, ngạo mạn của mình. Không những một tay gạt đi tất cả các anh hùng trong thiên hạ, Tào Tháo còn tự cao tự đại đắc ý cho mình là anh hùng và ngầm ý xếp trên Lưu Bị. Qua cách ứng xử của Tào Tháo cho ta thấy , Tháo là một kẻ gian hùng ( đa nghi, nham hiểm và tàn bạo). Song cũng phải nhận thấy rằng, Tào Tháo rất thông minh, cơ trí và ngoan cường. Dường như càng thông minh bao nhiêu, Tào Tháo càng đa nghi bấy nhiêu; càng cơ trí bao nhiêu thì càng nham hiểu bấy nhiêu; càng ngoan cường bao nhiêu thì càng tàn bạo bấy nhiêu. Tính cách của Tào Tháo là sự hợp bởi cái uy hùng và cái gian hùng

3. Sự khác nhau giữa tính cách Lưu Bị và Tào Tháo

Trong truyện cũng như trong quan niệm đánh giá của dân gian, Lưu Bị vẫn được xem là người giàu đức độ. Trong đoạn trích, Lưu Bị giống như một tấm gương soi để soi rõ lòng nham hiểm của Tào Tháo. Trái với sự nham hiểm, tàn bạo, xảo trá của Tào Tháo, Lưu Bị lấy lòng thành, dùng nhân nghĩa mà đối đãi với người. Nhờ thế mà Bị mới được lòng dân chúng khắp nơi. Ngược lại, như trên đã nói, Tào Tháo là một kẻ gian hùng, ứng xử với đời bằng nhiều thủ đoạn. Sự khác nhau cơ bản trong tính cách giữa Lưu Bị và Tào Tháo nằm ở chữ Đức. Tào Tháo làm mọi việc, kể cả những việc tàn nhẫn để đạt được ý định của mình, trong khi đó, Lưu Bị, thậm chí có thể hi sinh lợi ích riêng tư vì niềm vui của thiên hạ.

4. Nhận xét về cách kể chuyện trong đoạn trích

La Quán Trung có cách dẫn chuyện lôi cuốn, hấp dẫn. Lựa chọn  điển hình của người kể chuyện toàn tri (người kể biết trước hết mọi sự việc), tác giả đã tạo ra một trò chơi trốn tìm đầy bất ngờ và giàu kịch tính giữa một ngiwowfi quyết trốn và một kẻ quyết tìm. Người trốn tinh và khéo, người tìm sắc sảo, cơ trí.

Đoạn trích hấp dẫn còn bởi thái độ của tác giả trong việc khen chê rất rành rọt, các nhân vật được bố trí xếp thành hai phía trắng đen đối lập rất điển hình và mẫu mực

Bình luận (0)
nguyễn thị mai linh
Xem chi tiết
Amee
26 tháng 3 2021 lúc 22:22

tham khảo

Lúc bấy giờ, ba anh em, Lưu, Quan, Trương đang nương náu trên đất Tào. Lưu Bị sợ Tào Tháo nghi mình mưu đồ nên đã bày ra chuyện làm vườn cho Tào Tháo khỏi ngờ. Một hôm Quan Trường, Trương Phi đi chơi vắng, Lưu Bị đang lom khom tưới rau, bỗng thấy Hứa Chử và Trương Liêu dẫn vài chục người đến mời sứ quân đến ngay phủ. Lưu Bị giật mình hỏi là chuyện gì khẩn cấp thế rồi đi ngay.

Tào Tháo cười, hỏi chuyện làm vườn. Lưu Bị sợ tái mặt. Tào Tháo cầm tay dắt Lưu Bị vào vườn sau nhà, rồi nói chuyện "rừng mơ" ngày đi đánh Lưu Tú, dẫn đến chuyện mời Huyền Đức đến thưởng mơ xanh mới hái và uống rượu nấu vừa chín.

  

Hai người ngồi đối diện ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà say, chợt mây đen mù mịt, cơn mưa to sắp kéo đến. Tào Tháo và Huyền Đức dựa vào bao lơn ngắm xem vòi rồng lấy nước. Chợt Tào Tháo hỏi quân sư về chuyện rồng, rồi nói về sự biến hóa của rồng bay, rồng nấp, ví rồng như anh hùng. Tào Tháo hỏi Lưu Bị có bao anh hùng đời nay, xin thử nói cho nghe. Lưu Bị nói mình là người trần mắt thịt biết đâu được anh hùng, nhưng Tào Tháo nói: "Đã đành không biết mặt nhưng cũng có nghe tiếng chứ?".

Lưu Bị lần lượt nêu ra 5 tên: Viên Thuật, Viên Thiệu, Lưu Biểu, Tôn Sách, Lưu Chương và hỏi Tháo: "Có thể cho là anh hùng được chăng?". Tào Tháo vừa nghe, vừa cười nói: "Không thể gọi là anh hùng được!". Khi nghe Lưu Bị nói ngoài những người ấy ra, không biết ai nữa, thì Tháo nói: "Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao trùm vào vụ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia".

Nghe Lưu Bị hỏi: "Ai có thể xứng đáng được như thế?" thì Tào Thái lấy tay ra trỏ vào Huyền Đức rồi lại trỏ vào mình nói rằng:

- Anh hùng trong thiên hạ bây giờ chỉ sứ quân và Tháo này mà thôi.

Nghe nói thế, Huyền Đức giật nảy mình, cái thìa, đôi đũa cầm ở tay rơi cả xuống đất. Một tiếng sét cơn mưa đổ xuống Lưu Bị cúi xuống nhặt thìa và đũa nói tảng rằng: "Gớm thế! Tiếng sét dữ quá!" Tào Tháo cười hỏi sứ quan cũng sợ sấm à thì Lưu Bị nói các bậc đức thánh ngày xưa lúc gặp sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt, huống chi tôi đây lại không sợ!

Tào Tháo thấy thế không nghi nghờ gì Huyền Đức nữa.

Bình luận (0)
Hạo Thiên
26 tháng 3 2021 lúc 22:34
Bố cục: Phần 1 (từ đầu đến tiểu đình uống rượu): Việc Lưu Bị lấy việc làm vườn để che mắt Tào Tháo và giới thiệu hoàn cảnh của tiệc rượu. Phần 2 (phần còn lại): Cuộc luận bàn về anh hùng của Tào Tháo và Lưu Bị trong tiệc rượu Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Tâm trạng và tính cách Lưu Bị khi phải ở nhờ Tào Tháo :     - Hành xử cẩn trọng, sợ Tào Tháo sẽ tìm cách cản trở hoặc hãm hại.    - Trầm tĩnh, khôn ngoan, khéo che đậy tâm trạng, tình cảm thật của mình trước kẻ thù. Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Tính cách nhân vật Tào Tháo :    - Tham vọng, có tư tưởng làm bá chủ thiên hạ : có chí lớn, mưu cao, có tài.    - Bản tính gian hùng : có tài thao lược nhưng nhiều mưu mô xảo quyệt, bằng mọi thủ đoạn để đạt mục đích, đa nghi, kiêu ngạo nên chủ quan bị Lưu Bị qua mặt.Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Điểm khác giữa tính cách Lưu Bị và Tào Tháo : Tào Tháo (gian hùng) Lưu Bị (anh hùng)- Đang có quyền thế, có quân, lợi dụng vua Hán để khống chế chư hầu. - Tự tin, bản lĩnh, thông minh, hiểu biết - Chủ quan, đắc chí, coi thường người nên bị Lưu Bị qua mặt nhẹ nhàng. - Đang thua, mất đất, mất quân, phải sống nhờ nơi kẻ thù nguy hiểm. - Lo lắng, sợ hãi, cố che giấu ý nghĩ, tình cảm. - Khôn ngoan, linh hoạt che giấu được hành động của mình. Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2):    Cách kể chuyện hấp dẫn vì tình huống gay cấn, tự nhiên, kết thúc đơn giản, ngắn gọn và ý nghĩa. Thái độ tác giả trong việc khen chê khá rành rọt, hai phía điển hình và mẫu mực.
Bình luận (0)
Hạo Thiên
26 tháng 3 2021 lúc 22:37
Bố cục: Phần 1 (từ đầu đến tiểu đình uống rượu): Việc Lưu Bị lấy việc làm vườn để che mắt Tào Tháo và giới thiệu hoàn cảnh của tiệc rượu. Phần 2 (phần còn lại): Cuộc luận bàn về anh hùng của Tào Tháo và Lưu Bị trong tiệc rượu Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Tâm trạng và tính cách Lưu Bị khi phải ở nhờ Tào Tháo :     - Hành xử cẩn trọng, sợ Tào Tháo sẽ tìm cách cản trở hoặc hãm hại.    - Trầm tĩnh, khôn ngoan, khéo che đậy tâm trạng, tình cảm thật của mình trước kẻ thù. Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Tính cách nhân vật Tào Tháo :    - Tham vọng, có tư tưởng làm bá chủ thiên hạ : có chí lớn, mưu cao, có tài.    - Bản tính gian hùng : có tài thao lược nhưng nhiều mưu mô xảo quyệt, bằng mọi thủ đoạn để đạt mục đích, đa nghi, kiêu ngạo nên chủ quan bị Lưu Bị qua mặt.Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Điểm khác giữa tính cách Lưu Bị và Tào Tháo : Tào Tháo (gian hùng) Lưu Bị (anh hùng)- Đang có quyền thế, có quân, lợi dụng vua Hán để khống chế chư hầu. - Tự tin, bản lĩnh, thông minh, hiểu biết - Chủ quan, đắc chí, coi thường người nên bị Lưu Bị qua mặt nhẹ nhàng. - Đang thua, mất đất, mất quân, phải sống nhờ nơi kẻ thù nguy hiểm. - Lo lắng, sợ hãi, cố che giấu ý nghĩ, tình cảm. - Khôn ngoan, linh hoạt che giấu được hành động của mình. Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2):    Cách kể chuyện hấp dẫn vì tình huống gay cấn, tự nhiên, kết thúc đơn giản, ngắn gọn và ý nghĩa. Thái độ tác giả trong việc khen chê khá rành rọt, hai phía điển hình và mẫu mực.
Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
10 tháng 6 2019 lúc 1:54

Chọn đáp án: C

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
10 tháng 1 2018 lúc 4:07

Chọn đáp án: C

Bình luận (0)
Vũ Nguyễn Gia Hiển
Xem chi tiết
Nguyễn Trọng Hiếu
1 tháng 2 2016 lúc 10:27

Trong Hồi trống cổ Thành, bằng hai cách khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sắc thái tính cách của từng người, hai nhân vật đã cùng chứng minh chữ “nghĩa” của người anh hùng như những vẻ đẹp lí tưởng được con người muôn đời yêu chuộng

 

       1.  Tam quốc diễn nghĩa lấy trục tường thuật chính là cuộc đấu tranh quân sự giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nếu những sự kiện làm nên bộ khung vững chắc, hài hòa cho trục tường thuật thì hình tượng hàng nghìn nhân vật anh hùng là da thịt, là sức sống linh hoạt của trục tường thuật đó. Trong tiểu thuyết, họ được xây dựng thành những con người tượng trưng cho một hay nhiều vẻ đẹp lí tưởng theo quan niệm của tác giả.

 

     Ta biết rằng tài liệu viết nên tiểu thuyết được La Quán Trung tập hợp từ nguồn sử liệu, nguồn truyền thuyết, dân gian và nguồn kịch. Ta cũng biết một truyền thống của văn học Trung Quốc là sự tác động qua lại phức tạp giữa văn học thành văn và văn học truyền miệng. Trong tư tưởng về người anh hùng của La Quán Trung có thể thấy sự tổng hợp nhiều quan niệm khác nhau, từ quan niệm của nhà viết sứ chính thông đến quan niệm của người kế chuyện dân gian (gọi là “thuyết thoại nhân”). Nói về ảnh hưởng tôn giáo thì có thể thấy sự đan xen phức tạp cả Nho, Phật và Đạo theo quy luật chung của thể loại: “bước chuyển từ bình thoại sang tiểu thuyết chứa đựng những thay đổi sâu sắc về hệ thống tư tưởng, những quan niệm chủ yếu theo Phật giáo của bình thoại đều bị thay thế bởi quan điểm Nho giáo công khai của tác giả tiểu thuyết, nhưng lại chịu ảnh hưởng Đại giáo”. Mặc dù vậy, trên cơ bản tư tưởng về người anh hùng của Tam quốc diễn nghĩa là sự phản ánh trung thành tư tưởng và khát vọng của nhân dân.

 

        2.  Trong quá trình xây dựng nhân vật anh hùng, ta có thể nói đến tiêu chí nghĩa khí với hai khía cạnh trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa thể hiện quan hệ dọc, nghĩa với bề trên, trung với nhà Hán. Tín nghĩa thể hiện quan hệ ngang, nghĩa với anh em, tín với bạn bè. Tuy nhiêu, thực chất, cái quyết định lòng yêu ghét của tác giả cũng như độc giả đối với các hình tượng nhân vật anh hùng chưa hẳn là chữ nghĩa như trên đã nói. Thái độ “ủng Lưu phản Tào” xuyên suốt trong tác phẩm không chỉ vì “đế thục khẩu Ngụy” 'Thục là vua, Ngụy là giặc) mà còn vì “một nhân tố quan trọng nói lên cái đẹp của cá tính nhân vật là bộ mặt đạo đức”. Trong suốt tác phẩm, rất nhiều lần tác giả đề cập đến dòng dõi chính thống của Lưu Bị cũng như tấm lòng trung nghĩa tận tụy của Lưu Bị đối với cơ nghiệp của nhà Hán đặt trong sự đối lập gay gắt với sự phản nghịch của “tên giặc nhà Hán” Tào Tháo. Song cũng không ít lần, tác giả lên tiếng công kích những nhân vật thuộc dòng dõi chính thống mà hèn nhát, vô dụng bất tài hay hết lời ca ngợi những vị lãnh đạo không thuộc dòng dõi chính thống - nhân vật Tôn Quyền là một ví dụ sinh động. Thái độ “ủng Lưu” của tác giả là một nhân tố quan trọng bộc lộ quan điểm về người anh hùng. Thái độ này thể hiện ở hai khía cạnh chính:

 

Thứ nhất, La Quán Trung tập trung mọi phẩm chất lí tưởng của một vị minh, quân theo quan niệm của nhân dân vào vị anh hùng cầm phe Thục, trong đó nổi bật nhất là chữ “Nhân”. Đáng chú ý là dường như mỗi lần nói Luu Bị “nhân” là một lần tác giả trực tiếp hay gián tiếp so ánh với Tào Tháo “bất nhân” và ngược lại. La Quán Trung cũng đã để cho chính nhân vật Lưu Bị phát biểu điều này: “Tháo dĩ cấp, ngô dĩ khoan; Tháo dĩ bạo, ngô dĩ nhân; Tháo dĩ nguyệt, ngô dĩ trung". (Tháo nhanh, ta thong thả, Tháo dùng bạo lực, ta dùng nhàn nghĩa, Tháo dùng âm mưu xảo trá, ta lấy lòng trung thành đối đãi). Vấn đề tác giả đặt ra ở đây không phải là hình ảnh một ông vua thuộc dòng chính thống mà là hình ảnh một ông vua lí tưởng trong quan niệm và khát vọng cùa nhân dàn. Đó là một ông vua lấy “nhân” làm lẽ sống, lấy sự yên ổn, hạnh phúc của dân chúng làm mục đích hàng đầu.

 

      Thứ hai, mọi tập đoàn trong Tam quốc diễn nghĩa đều là nơi quy tự của những anh hùng trong thiên hạ. Song tập đoàn Lưu Thục không chỉ là nơi tập trung rất nhiều người anh hùng mà quan trọng hơn là nơi tinh thần trung nghĩa tín nghĩa giữa những người anh hùng được hết sức trân trọng. Điển hình của tinh thần này là câu chuyện kết nghĩa vườn dào của ba anh em Lưu - Quan - Trương. Không phải là quan hệ vua tôi bình thường như quan hệ giữa Tào Tháo, Tôn Quyền với thuộc hạ, quan hệ giữa họ là vua tôi nhưng tình nghĩa là anh em. Mốì liên kết nhờ kết nghĩa giữa những con người này thậm chí còn khăng khít hơn cả môi liên kết ruột thịt. Thực chất đó là quan hệ vua tôi lí tưởng trong con mắt nhân dân.

 

      Tuy nhiên, mặt khác cũng phải khẳng định rằng việc đứng về phía Lưu Thục hay phía đối lập hoàn toàn không phải là yếu tố có ý nghĩa quyết định một nhân vật có phải là anh hùng hay không. Chu Du vẫn là một nhân vật anh hùng rất vẹn toàn cho dù Chu Du thuộc phe Tôn Quyền và luôn luôn là kẻ đối lập trưc tiếp hay ngấm ngầm với phe Lưu Thục. Ngoài ra, không chi một lần ta bắt gặp tình huống sau: một viên tướng (thuộc bất kì phe nào) bại trận và rơi vào tay phe đối địch. Trước mắt họ có hai con đường: chống lại và sẵn sàng chịu chết hay hàng phục và chờ đợi được hậu đãi. Và trong hầu hết mọi trường hợp, kẻ kiên quyết khóng thờ hai chủ, kẻ “vươn- cổ chịu chém luôn được ca ngợi là “có nghĩa”, được chính kẻ thù, sau khi hành xử, lại hậu táng với lòng thương tiếc. Như vậy, người anh hùng có “nghĩa”, có “nhân" theo quan điểm đương thời luôn được ca ngợi, cho dù họ thuộc về phe nào.

 

      Nói tác giả căn cứ vào “nghĩa” để xác định tiêu chí “anh hùng” của nhân vật có thể đúng nhưng chưa đủ. Có thể thấy rõ điều này qua cách La Quán Trung nhìn nhận và mô tả nhân vật Tào Tháo. Tào Tháo trong tác phẩm là một nhân vật phản diện điển hình, là nơi tập trung những nét tính cách tàn bạo, đa nghi, xảo quyệt. Nhưng bên cạnh đó La Quán Trung cũng mô tả Tào Tháo với không ít những phẩm chất của người anh hùng, người lãnh đạo như đa mưu túc trí, thức thời, nhất là giỏi nhìn người và dùng người. Trong hàng nghìn nhân vật anh hùng của tiểu thuyết., chỉ có Khổng Minh mới sánh được với Tháo về điểm này. Tào Tháo đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất của một “năng thần đời trị” và “gian thần đời loạn”, đúng như lời tiên đoán báo đầu cuốn sách. La Quán Trung, trước khi viết tiểu thuyết, hẳn nắm rất rõ biên niên sử chính thống cũng như sự cải biến của các thoại bản, ông hẳn cũng đã cân nhắc về sự hài hòa giữa chân lí lịch sử và chận lí nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Do vậy, ông một mặt xây dựng Tào Tháo như một điển hình của tính cách bất nhân phi nghĩa, mặt khác vẫn thừa nhận tài năng hiếm có của Tào Tháo trên nhiều lĩnh vực; một mặt cực tả cái “gian” của Tháo khiến người ta phải căm ghét, đồng thời vẫn làm rõ cái 'hùng” cùa Tháo khiến nghệ thuật không thể không nể phục. Ta biết rằng trong thực tế lịch sử, Tào Tháo không đến nỗi “tệ” như nhân vật Tào Tháo trong tác phẩm. Như vậy, am hiểu về lịch sử, La Quán Trung hoàn toàn có thể xây dựng nhân vật Tào Tháo với những nét tính cách theo sát, thực tế lịch sử, như một anh hùng cùa thời đại. Nhưng La Quán Trung không làm như vậy, ông đả tập trung mọi nét tính cách xấu xa vào Tào Tháo, khiến Tháo trở thành một. điển hình phản diện trong tác phẩm. Rõ ràng điều đó là một phần ý đồ nghệ thuật của ông. Nhưng một khi đã đặt vấn đề như vậy thì chúng ta cũng có thể nêu câu hỏi ngược lại: tại sao La Quán Trung không tước bỏ hẳn phần ‘hùng” trong nhân vật Tào Tháo để khắc họa “trọn vẹn’’ một tính cách “tuyệt gian”? Tại sao ông không để cho người đọc có thể ghét Tháo theo cái cách người ta ghét Đổng Trác chẳng hạn, mà vẫn khiên người ta phải vừa ghét vừa nể phục? Điều này thế hiện cách nhìn nhận nhân vật vừa khách quan vừa tinh tế của La Quán Trung. Chính cách nhìn nhận trên đã khiến ông hết sức thành công trong nghệ thuật xây dựng Tào Tháo thành một. nhân vật “gian hùng” điển hình. “Gian hùng” ở đây không có nghĩa lả phép cộng giản đơn giữa tính cách “gian” và tính cách “hùng”, mà nghĩa là trong “gian” có “hùng” và ngược lại, nói cách khác đó là cái '“gian” cùa một người vốn có chất “hùng” và cái “hùng” của một người vốn có chất “gian’’! Do vậy, Tào Tháo đã được đánh giá là một “nhân vật điển hình”. Có đặt vấn đổ trên vào tình hình văn học đương thời, khi mà các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết đều là nhân vật loại hình với tính cách nhất phiên một chiểu, ta mới đánh giá đúng tài năng của La Quán Trung.

 

     3.  “Hồi trống cổ Thành” được giảng dạy trong chương trình Văn học 10 (tập hai) chỉ là một trích đoạn ngắn chưa đầy vài ba trang giấy trong toàn bộ tác phẩm trường thiên Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên, với nhiệt tình ca ngợi người anh hùng và tài năng tổ chức nghệ thuật đạt đến trình độ xảo diệu, La Quán Trung đã thể hiện được cái “nghĩa” của người anh hùng với tất cả vẻ đẹp ngời sáng cũng như diện mạo phong phú của nó. Trích đoạn này rút ra từ hồi 28 với tên gọi “Chém Sái Dương anh em hoài giải. Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên” (chữ “hồi” ở đây có nghĩa là “quay trở về”, khác với chữ “hồi” trong “Hồi trống Cổ Thành). Chính tình huống xung đột do hiếu lầm và sự minh oan bằng hành động cúa các vị anh hùng đã tạo nên hoàn cảnh thật đặc biệt, để những phẩm chất trung nghĩa tín nghĩa có dịp bộc lộ.

 

     Quan Công và Trương Phi là hai nhân vật được xây dựng như những hình tượng tiêu biểu của người anh hùng xuyên suốt tiểu thuyết. Tuy nhiên, riêng ở trích đoạn này, những phẩm chất anh hùng của họ được đặt trong mối quan hệ với nhau, soi sáng lẫn nhau. Nếu như Trương Phi vốn nổi tiếng là người anh hùng trượng nghĩa một cách thẳng thắn, cương trực, trong sáng đến tận độ thì ở trích đoạn này, những đặc điểm nói trên phải đối diện với một tình huống thật khó xử: gặp lại người anh kết nghĩa vườn đào Quan Công đưa hai phu nhân của người anh cả đồng thời cũng là chủ nhân Lưu Bị trở về, nhưng oái ăm thay, người anh đó đã “bỏ anh, hàng Tào Tháo”, “thờ hai chủ” (theo cách nghĩ của Trương Phi). Với Trương Phi, Quan Công đã bước qua làn ranh giới không thể lẫn lộn giữa “nghĩa” và “bội nghĩa’, “nghĩa” và “phụ nghĩa”, đã biến từ người anh kết nghĩa và người bại cùng chí hướng thành kẻ thù không đội trời chung. Do vậy, trong trích đoạn này, chữ “nghĩa” của Trương Phi được thể hiện ngời sáng nhất chính ở những hành động như “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”, hay lời nói “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Tuy nhiên, cũng nhờ tấm lòng trung tính ngay thẳng sáng trong đó đã khiến tác giả có thể mô tả Trương Phi không mội chút khiên cưỡng thay đổi hoàn toàn thái độ khi Quan Công đã chém được Sái Dương lúc chưa dứt một hồi trống, khi đã nghe tên lính cầm cờ hiệu của Sái Dương và cả lúc chưa dứt một hồi trống, khi đã nghe tên lính cầm cờ hiệu của Sái Dương và cả Cam phu nhân, Mi phu nhân kể về cuộc sống của Quan Công khi ở bên Tào, không có chút mâu thuẫn nào giữa một Trương Phi hăm hở cầm xà mâu đâm Quan Công ở đầu trích đoạn và một Trương Phi “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường” ở cuối trích đoạn. Còn Quan Công vốn đã được mệnh danh là nhân vật “tuyệt nghĩa” (bên cạnh Lưu Bị “tuyệt nhân”, Khổng Minh “tuyệt trí”). Song đến trích đoạn này, chữ “nghĩa" của Quan Công phải đối mặt với một thử thách oái ăm khi đứng trước người anh hùng không phải là những cám dỗ tiền tài, rượu ngon, gái đẹp, ngựa hay... như khi còn ở trong cảnh “thân tại Tào doanh tâm tại Hán” để Quan Công có thế chối từ, cũng không phải năm cửa ải hiểm trở của quân thù để Quan Công có thể “qua năm cửa ải chém sáu tướng Tào”. Quan Công mừng rỡ chạy lại, Trương Phi cầm xà mâu xông tới mắng Quan Công là kẻ “bội nghĩa”. Quan Công phân trần, Trương Phi gọi Quan Công là kẻ nói dối. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi cuộc gặp gỡ với Trương Phi là “cửa ải thứ sáu” mà Quan Công phải vượt, qua để chứng tỏ tấm lòng trung nghĩa tín nghĩa vẹn toàn. Quan Công đã làm điều đó đúng như người anh hùng đích thực phải làm: chém đầu tướng Tào Sái Dương khi hồi trống thách thức thứ nhất còn chưa dứt. Đây cũng là một điều rất dễ dàng nhận thấy: tuân thủ bút pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết cổ điển, các nhân vật anh hùng chủ yếu sử dụng hành động để thể hiện tính cách - ở đây là tấm lòng trung nghĩa tín nghĩa của mình.

 

      Như vậy, trong Hồi trống cổ Thành, bằng hai cách khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sắc thái tính cách của từng người, hai nhân vật đã cùng chứng minh chữ “nghĩa” của người anh hùng như những vẻ đẹp lí tưởng được con người muôn đời yêu chuộng.

Bình luận (0)
Đặng Minh Triều
1 tháng 2 2016 lúc 10:28

1. Tam quốc diễn nghĩa lấy trục tường thuật chính là cuộc đấu tranh quân sự giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nếu những sự kiện làm nên bộ khung vững chắc, hài hòa cho trục tường thuật thì hình tượng hàng nghìn nhân vật anh hùng là da thịt, là sức sống linh hoạt của trục tường thuật đó. Trong tiểu thuyết, họ được xây dựng thành những con người tượng trưng cho một hay nhiều vẻ đẹp lí tưởng theo quan niệm của tác giả. Ta biết rằng tài liệu viết nên tiểu thuyết được La Quán Trung tập hợp từ nguồn sử liệu, nguồn truyền thuyết, dân gian và nguồn kịch. Ta cũng biết một truyền thống của văn học Trung Quốc là sự tác động qua lại phức tạp giữa văn học thành văn và văn học truyền miệng. Trong tư tưởng về người anh hùng của La Quán Trung có thể thấy sự tổng hợp nhiều quan niệm khác nhau, từ quan niệm của nhà viết sứ chính thông đến quan niệm của người kế chuyện dân gian (gọi là “thuyết thoại nhân”). Nói về ảnh hưởng tôn giáo thì có thể thấy sự đan xen phức tạp cả Nho, Phật và Đạo theo quy luật chung của thể loại: “bước chuyển từ bình thoại sang tiểu thuyết chứa đựng những thay đổi sâu sắc về hệ thống tư tưởng, những quanniệm chủ yếu theo Phật giáo của bình thoại đều bị thay thế bởi quan điểm Nho giáo công khai của tác giả tiểu thuyết, nhưng lại chịu ảnh hưởng Đại giáo”. Mặc dù vậy, trên cơ bản tư tưởng về người anh hùng củaTam quốc diễn nghĩa là sự phản ánh trung thành tư tưởng và khát vọng của nhân dân. 2. Trong quá trình xây dựng nhân vật anh hùng, ta có thể nói đến tiêu chí nghĩa khí với hai khía cạnh trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa thể hiện quan hệ dọc, nghĩa với bề trên, trung với nhà Hán. Tín nghĩa thể hiện quan hệ ngang, nghĩa với anh em, tín với bạn bè. Tuy nhiêu, thực chất, cái quyết định lòng yêu ghét của tác giả cũng như độc giả đối với các hình tượng nhân vật anh hùng chưa hẳn là chữ nghĩa như trên đã nói. Thái độ “ủng Lưu phản Tào” xuyên suốt trong tác phẩm không chỉ vì “đế thục khẩu Ngụy” 'Thục là vua, Ngụy là giặc) mà còn vì “một nhân tố quan trọng nói lên cái đẹp của cá tính nhân vật là bộ mặt đạo đức”. Trong suốt tác phẩm, rất nhiều lần tác giả đề cập đến dòng dõi chính thống của Lưu Bị cũng như tấm lòng trung nghĩa tận tụy của Lưu Bị đối với cơ nghiệp của nhà Hán đặt trong sựđối lập gay gắt với sự phản nghịch của “tên giặc nhà Hán” Tào Tháo. Song cũng không ít lần, tác giả lên tiếng công kích những nhân vật thuộc dòng dõi chính thống mà hèn nhát, vô dụng bất tài hay hết lời ca ngợi những vị lãnh đạo không thuộc dòng dõi chính thống - nhân vật Tôn Quyền là một ví dụ sinh động. Thái độ “ủng Lưu” của tác giả là một nhân tố quan trọng bộc lộ quan điểm về người anh hùng. Thái độ này thể hiện ở hai khía cạnh chính:Thứ nhất, La Quán Trung tập trung mọi phẩm chất lí tưởng của một vị minh, quân theo quan niệm của nhân dân vào vị anh hùng cầm phe Thục, trong đó nổi bật nhất là chữ “Nhân”. Đáng chú ý là dường như mỗi lần nói Luu Bị “nhân” là một lần tác giả trực tiếp hay gián tiếp so ánh với Tào Tháo “bất nhân” và ngược lại. La Quán Trung cũng đã để cho chính nhân vật Lưu Bị phát biểu điều này: “Tháo dĩ cấp, ngô dĩ khoan; Tháo dĩ bạo, ngô dĩ nhân; Tháo dĩ nguyệt, ngô dĩ trung". (Tháo nhanh, ta thong thả, Tháo dùng bạo lực, ta dùng nhàn nghĩa, Tháo dùng âm mưu xảo trá, ta lấy lòng trung thành đối đãi). Vấn đề tác giả đặt ra ở đây không phải là hình ảnh một ông vua thuộc dòng chính thống mà là hình ảnh một ông vua lí tưởng trong quan niệm và khát vọng cùa nhân dàn. Đó là một ông vua lấy “nhân” làm lẽ sống, lấy sự yên ổn, hạnh phúc của dân chúng làm mục đích hàng đầu. Thứ hai, mọi tập đoàn trong Tam quốc diễn nghĩa đều là nơi quy tự của những anh hùng trong thiên hạ. Song tập đoàn Lưu Thục không chỉ là nơi tập trung rất nhiều người anh hùng mà quan trọng hơn là nơi tinh thần trung nghĩa tín nghĩa giữa những người anh hùng được hết sức trân trọng. Điển hình của tinhthần này là câu chuyện kết nghĩa vườn dào của ba anh em Lưu - Quan - Trương. Không phải là quan hệ vua tôi bình thường như quan hệ giữa Tào Tháo, Tôn Quyền với thuộc hạ, quan hệ giữa họ là vua tôi nhưng tình nghĩa là anh em. Mốì liên kết nhờ kết nghĩa giữa những con người này thậm chí còn khăng khít hơn cả môi liên kết ruột thịt. Thực chất đó là quan hệ vua tôi lí tưởng trong con mắt nhân dân. Tuy nhiên, mặt khác cũng phải khẳng định rằng việc đứng về phía Lưu Thục hay phía đối lập hoàn toàn không phải là yếu tố có ý nghĩa quyết định một nhân vật có phải là anh hùng hay không. Chu Du vẫnlà một nhân vật anh hùng rất vẹn toàn cho dù Chu Du thuộc phe Tôn Quyền và luôn luôn là kẻ đối lập trưc tiếp hay ngấm ngầm với phe Lưu Thục. Ngoài ra, không chi một lần ta bắt gặp tình huống sau: một viên tướng (thuộc bất kì phe nào) bại trận và rơi vào tay phe đối địch. Trước mắt họ có hai con đường: chống lại và sẵn sàng chịu chết hay hàng phục và chờ đợi được hậu đãi. Và trong hầu hết mọi trường hợp,kẻ kiên quyết khóng thờ hai chủ, kẻ “vươn- cổ chịu chém luôn được ca ngợi là “có nghĩa”, được chính kẻ thù, sau khi hành xử, lại hậu táng với lòng thương tiếc. Như vậy, người anh hùng có “nghĩa”, có “nhân" theo quan điểm đương thời luôn được ca ngợi, cho dù họ thuộc về phe nào. Nói tác giả căn cứ vào “nghĩa” để xác định tiêu chí “anh hùng” của nhân vật có thể đúng nhưng chưa đủ. Có thể thấy rõ điều này qua cách La Quán Trung nhìn nhận và mô tả nhân vật Tào Tháo. Tào Tháo trong tác phẩm là một nhân vật phản diện điển hình, là nơi tập trung những nét tính cách tàn bạo, đa nghi, xảo quyệt. Nhưng bên cạnh đó La Quán Trung cũng mô tả Tào Tháo với không ít những phẩm chất của người anh hùng, người lãnh đạo như đa mưu túc trí, thức thời, nhất là giỏi nhìn người và dùng người. Trong hàng nghìn nhân vật anh hùng của tiểu thuyết., chỉ có Khổng Minh mới sánh được với Tháo về điểm này. Tào Tháo đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất của một “năng thần đời trị” và “gian thần đời loạn”, đúng như lời tiên đoán báo đầu cuốn sách. La Quán Trung, trước khi viết tiểu thuyết, hẳn nắm rất rõ biên niên sử chính thống cũng như sự cải biến của các thoại bản, ông hẳn cũng đã cân nhắc về sự hài hòa giữa chân lí lịch sử và chận lí nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Do vậy, ông một mặt xây dựng Tào Tháo như một điển hình của tính cách bất nhân phi nghĩa, mặt khác vẫn thừa nhận tài năng hiếm có của Tào Tháo trên nhiều lĩnh vực; một mặt cực tả cái “gian” của Tháo khiến người ta phải căm ghét, đồng thời vẫn làm rõ cái 'hùng” cùa Tháo khiến nghệ thuật không thể không nể phục. Ta biết rằng trong thực tế lịch sử, Tào Tháo không đến nỗi “tệ” như nhân vật Tào Tháo trong tác phẩm. Như vậy, am hiểu về lịch sử, La Quán Trung hoàn toàn có thể xây dựng nhân vật Tào Tháo với những nét tính cách theo sát, thực tế lịch sử, như một anh hùng cùa thời đại. Nhưng La Quán Trung không làm như vậy, ông đả tập trung mọi nét tính cách xấu xa vào Tào Tháo, khiến Tháo trở thành một. điển hình phản diện trong tác phẩm. Rõ ràng điều đó là một phần ý đồ nghệ thuật của ông. Nhưng một khi đã đặt vấn đề như vậy thìchúng ta cũng có thể nêu câu hỏi ngược lại: tại sao La Quán Trung không tước bỏ hẳn phần ‘hùng” trong nhân vật Tào Tháo để khắc họa “trọn vẹn’’ một tính cách “tuyệt gian”? Tại sao ông không để cho người đọc có thể ghét Tháo theo cái cách người ta ghét Đổng Trác chẳng hạn, mà vẫn khiên người ta phải vừa ghét vừa nể phục? Điều này thế hiện cách nhìn nhận nhân vật vừa khách quan vừa tinh tế của La Quán Trung. Chính cách nhìn nhận trên đã khiến ông hết sức thành công trong nghệ thuật xây dựng Tào Tháo thành một. nhân vật “gian hùng” điển hình. “Gian hùng” ở đây không có nghĩa lả phép cộng giản đơn giữa tính cách “gian” và tính cách “hùng”, mà nghĩa là trong “gian” có “hùng” và ngược lại, nói cách khác đó là cái '“gian” cùa một người vốn có chất “hùng” và cái “hùng” của một người vốn có chất “gian’’! Do vậy, Tào Tháo đã được đánh giá là một “nhân vật điển hình”. Có đặt vấn đổ trên vào tình hình văn học đương thời, khi mà các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết đều là nhân vật loại hình với tính cách nhất phiên một chiểu, ta mới đánh giá đúng tài năng của La Quán Trung. 3. “Hồi trống cổ Thành” được giảng dạy trong chương trình Văn học 10 (tập hai) chỉ là một trích đoạnngắn chưa đầy vài ba trang giấy trong toàn bộ tác phẩm trường thiên Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên, vớinhiệt tình ca ngợi người anh hùng và tài năng tổ chức nghệ thuật đạt đến trình độ xảo diệu, La Quán Trung đã thể hiện được cái “nghĩa” của người anh hùng với tất cả vẻ đẹp ngời sáng cũng như diện mạo phong phú của nó. Trích đoạn này rút ra từ hồi 28 với tên gọi “Chém Sái Dương anh em hoài giải. Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên” (chữ “hồi” ở đây có nghĩa là “quay trở về”, khác với chữ “hồi” trong “Hồi trống Cổ Thành). Chính tình huống xung đột do hiếu lầm và sự minh oan bằng hành động cúa các vị anh hùng đã tạo nên hoàn cảnh thật đặc biệt, để những phẩm chất trung nghĩa tín nghĩa có dịp bộc lộ

Xem nội dung đầy đủ tại:http://123doc.org/document/3098251-hinh-tuong-nguoi-anh-hung-va-tieu-chi-nghia-trong-tam-quoc-dien-nghia-cua-la-quan-trung.htm

Bình luận (0)
Liên Hồng Phúc
1 tháng 2 2016 lúc 10:31
1. Tam quốc diễn nghĩa lấy trục tường thuật chính là cuộc đấu tranh quân sự giữa ba nước Ngụy,Thục, Ngô. Nếu những sự kiện làm nên bộ khung vững chắc, hài hòa cho trục tường thuật thì hình tượnghàng nghìn nhân vật anh hùng là da thịt, là sức sống linh hoạt của trục tường thuật đó. Trong tiểu thuyết,họ được xây dựng thành những con người tượng trưng cho một hay nhiều vẻ đẹp lí tưởng theo quan niệmcủa tác giả.Ta biết rằng tài liệu viết nên tiểu thuyết được La Quán Trung tập hợp từ nguồn sử liệu, nguồn truyềnthuyết, dân gian và nguồn kịch. Ta cũng biết một truyền thống của văn học Trung Quốc là sự tác độngqua lại phức tạp giữa văn học thành văn và văn học truyền miệng. Trong tư tưởng về người anh hùng củaLa Quán Trung có thể thấy sự tổng hợp nhiều quan niệm khác nhau, từ quan niệm của nhà viết sứ chínhthông đến quan niệm của người kế chuyện dân gian (gọi là “thuyết thoại nhân”). Nói về ảnh hưởng tôngiáo thì có thể thấy sự đan xen phức tạp cả Nho, Phật và Đạo theo quy luật chung của thể loại: “bướcchuyển từ bình thoại sang tiểu thuyết chứa đựng những thay đổi sâu sắc về hệ thống tư tưởng, những quanniệm chủ yếu theo Phật giáo của bình thoại đều bị thay thế bởi quan điểm Nho giáo công khai của tác giảtiểu thuyết, nhưng lại chịu ảnh hưởng Đại giáo”. Mặc dù vậy, trên cơ bản tư tưởng về người anh hùng củaTam quốc diễn nghĩa là sự phản ánh trung thành tư tưởng và khát vọng của nhân dân.2. Trong quá trình xây dựng nhân vật anh hùng, ta có thể nói đến tiêu chí nghĩa khí với hai khíacạnh trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa thể hiện quan hệ dọc, nghĩa với bề trên, trung với nhà Hán.Tín nghĩa thể hiện quan hệ ngang, nghĩa với anh em, tín với bạn bè. Tuy nhiêu, thực chất, cái quyết địnhlòng yêu ghét của tác giả cũng như độc giả đối với các hình tượng nhân vật anh hùng chưa hẳn là chữnghĩa như trên đã nói. Thái độ “ủng Lưu phản Tào” xuyên suốt trong tác phẩm không chỉ vì “đế thụckhẩu Ngụy” 'Thục là vua, Ngụy là giặc) mà còn vì “một nhân tố quan trọng nói lên cái đẹp của cá tínhnhân vật là bộ mặt đạo đức”. Trong suốt tác phẩm, rất nhiều lần tác giả đề cập đến dòng dõi chính thốngcủa Lưu Bị cũng như tấm lòng trung nghĩa tận tụy của Lưu Bị đối với cơ nghiệp của nhà Hán đặt trong sựđối lập gay gắt với sự phản nghịch của “tên giặc nhà Hán” Tào Tháo. Song cũng không ít lần, tác giả lêntiếng công kích những nhân vật thuộc dòng dõi chính thống mà hèn nhát, vô dụng bất tài hay hết lời cangợi những vị lãnh đạo không thuộc dòng dõi chính thống - nhân vật Tôn Quyền là một ví dụ sinh động.Thái độ “ủng Lưu” của tác giả là một nhân tố quan trọng bộc lộ quan điểm về người anh hùng. Thái độnày thể hiện ở hai khía cạnh chính:Thứ nhất, La Quán Trung tập trung mọi phẩm chất lí tưởng của một vị minh, quân theo quan niệm củanhân dân vào vị anh hùng cầm phe Thục, trong đó nổi bật nhất là chữ “Nhân”. Đáng chú ý là dường nhưmỗi lần nói Luu Bị “nhân” là một lần tác giả trực tiếp hay gián tiếp so ánh với Tào Tháo “bất nhân” vàngược lại. La Quán Trung cũng đã để cho chính nhân vật Lưu Bị phát biểu điều này: “Tháo dĩ cấp, ngô dĩkhoan; Tháo dĩ bạo, ngô dĩ nhân; Tháo dĩ nguyệt, ngô dĩ trung". (Tháo nhanh, ta thong thả, Tháo dùngbạo lực, ta dùng nhàn nghĩa, Tháo dùng âm mưu xảo trá, ta lấy lòng trung thành đối đãi). Vấn đề tác giảđặt ra ở đây không phải là hình ảnh một ông vua thuộc dòng chính thống mà là hình ảnh một ông vua lítưởng trong quan niệm và khát vọng cùa nhân dàn. Đó là một ông vua lấy “nhân” làm lẽ sống, lấy sự yênổn, hạnh phúc của dân chúng làm mục đích hàng đầu.Thứ hai, mọi tập đoàn trong Tam quốc diễn nghĩa đều là nơi quy tự của những anh hùng trong thiên hạ. Song tập đoàn Lưu Thục không chỉ là nơi tập trung rất nhiều người anh hùng mà quan trọng hơn là nơi tinh thần trung nghĩa tín nghĩa giữa những người anh hùng được hết sức trân trọng. Điển hình của tinhthần này là câu chuyện kết nghĩa vườn dào của ba anh em Lưu - Quan - Trương. Không phải là quan hệvua tôi bình thường như quan hệ giữa Tào Tháo, Tôn Quyền với thuộc hạ, quan hệ giữa họ là vua tôinhưng tình nghĩa là anh em. Mốì liên kết nhờ kết nghĩa giữa những con người này thậm chí còn khăngkhít hơn cả môi liên kết ruột thịt. Thực chất đó là quan hệ vua tôi lí tưởng trong con mắt nhân dân.Tuy nhiên, mặt khác cũng phải khẳng định rằng việc đứng về phía Lưu Thục hay phía đối lập hoàntoàn không phải là yếu tố có ý nghĩa quyết định một nhân vật có phải là anh hùng hay không. Chu Du vẫnlà một nhân vật anh hùng rất vẹn toàn cho dù Chu Du thuộc phe Tôn Quyền và luôn luôn là kẻ đối lậptrưc tiếp hay ngấm ngầm với phe Lưu Thục. Ngoài ra, không chi một lần ta bắt gặp tình huống sau: mộtviên tướng (thuộc bất kì phe nào) bại trận và rơi vào tay phe đối địch. Trước mắt họ có hai con đường:chống lại và sẵn sàng chịu chết hay hàng phục và chờ đợi được hậu đãi. Và trong hầu hết mọi trường hợp,kẻ kiên quyết khóng thờ hai chủ, kẻ “vươn- cổ chịu chém luôn được ca ngợi là “có nghĩa”, được chính kẻthù, sau khi hành xử, lại hậu táng với lòng thương tiếc. Như vậy, người anh hùng có “nghĩa”, có “nhân"theo quan điểm đương thời luôn được ca ngợi, cho dù họ thuộc về phe nào.Nói tác giả căn cứ vào “nghĩa” để xác định tiêu chí “anh hùng” của nhân vật có thể đúng nhưng chưađủ. Có thể thấy rõ điều này qua cách La Quán Trung nhìn nhận và mô tả nhân vật Tào Tháo. Tào Tháotrong tác phẩm là một nhân vật phản diện điển hình, là nơi tập trung những nét tính cách tàn bạo, đa nghi,xảo quyệt. Nhưng bên cạnh đó La Quán Trung cũng mô tả Tào Tháo với không ít những phẩm chất củangười anh hùng, người lãnh đạo như đa mưu túc trí, thức thời, nhất là giỏi nhìn người và dùng người.Trong hàng nghìn nhân vật anh hùng của tiểu thuyết., chỉ có Khổng Minh mới sánh được với Tháo vềđiểm này. Tào Tháo đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất của một “năng thần đời trị”“gian thần đời loạn”, đúng như lời tiên đoán báo đầu cuốn sách. La Quán Trung, trước khi viết tiểu thuyết, hẳn nắm rất rõ biên niên sử chính thống cũng như sự cải biến của các thoại bản, ông hẳn cũng đã cân nhắc vềsự hài hòa giữa chân lí lịch sử và chận lí nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Do vậy, ông một mặt xâydựng Tào Tháo như một điển hình của tính cách bất nhân phi nghĩa, mặt khác vẫn thừa nhận tài nănghiếm có của Tào Tháo trên nhiều lĩnh vực; một mặt cực tả cái “gian” của Tháo khiến người ta phải cămghét, đồng thời vẫn làm rõ cái 'hùng” cùa Tháo khiến nghệ thuật không thể không nể phục. Ta biết rằngtrong thực tế lịch sử, Tào Tháo không đến nỗi “tệ” như nhân vật Tào Tháo trong tác phẩm. Như vậy, amhiểu về lịch sử, La Quán Trung hoàn toàn có thể xây dựng nhân vật Tào Tháo với những nét tính cáchtheo sát, thực tế lịch sử, như một anh hùng cùa thời đại. Nhưng La Quán Trung không làm như vậy, ôngđả tập trung mọi nét tính cách xấu xa vào Tào Tháo, khiến Tháo trở thành một. điển hình phản diện trongtác phẩm. Rõ ràng điều đó là một phần ý đồ nghệ thuật của ông. Nhưng một khi đã đặt vấn đề như vậy thìchúng ta cũng có thể nêu câu hỏi ngược lại: tại sao La Quán Trung không tước bỏ hẳn phần ‘hùng” trongnhân vật Tào Tháo để khắc họa “trọn vẹn’’ một tính cách “tuyệt gian”? Tại sao ông không để cho ngườiđọc có thể ghét Tháo theo cái cách người ta ghét Đổng Trác chẳng hạn, mà vẫn khiên người ta phải vừaghét vừa nể phục? Điều này thế hiện cách nhìn nhận nhân vật vừa khách quan vừa tinh tế của La QuánTrung. Chính cách nhìn nhận trên đã khiến ông hết sức thành công trong nghệ thuật xây dựng Tào Tháothành một. nhân vật “gian hùng” điển hình. “Gian hùng” ở đây không có nghĩa lả phép cộng giản đơngiữa tính cách “gian” và tính cách “hùng”, mà nghĩa là trong “gian” có “hùng” và ngược lại, nói cáchkhác đó là cái '“gian” cùa một người vốn có chất “hùng” và cái “hùng” của một người vốn có chất“gian’’! Do vậy, Tào Tháo đã được đánh giá là một “nhân vật điển hình”. Có đặt vấn đổ trên vào tìnhhình văn học đương thời, khi mà các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết đều là nhân vật loại hình vớitính cách nhất phiên một chiểu, ta mới đánh giá đúng tài năng của La Quán Trung.3. “Hồi trống cổ Thành” được giảng dạy trong chương trình Văn học 10 (tập hai) chỉ là một trích đoạnngắn chưa đầy vài ba trang giấy trong toàn bộ tác phẩm trường thiên Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên, vớinhiệt tình ca ngợi người anh hùng và tài năng tổ chức nghệ thuật đạt đến trình độ xảo diệu, La QuánTrung đã thể hiện được cái “nghĩa” của người anh hùng với tất cả vẻ đẹp ngời sáng cũng như diện mạophong phú của nó. Trích đoạn này rút ra từ hồi 28 với tên gọi “Chém Sái Dương anh em hoài giải. Hồi cổthành tôi chúa đoàn viên” (chữ “hồi” ở đây có nghĩa là “quay trở về”, khác với chữ “hồi” trong “Hồitrống Cổ Thành). Chính tình huống xung đột do hiếu lầm và sự minh oan bằng hành động cúa các vị anhhùng đã tạo nên hoàn cảnh thật đặc biệt, để những phẩm chất trung nghĩa tín nghĩa có dịp bộc lộ.
Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
3 tháng 8 2017 lúc 15:24

Chọn đáp án: C

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
16 tháng 8 2019 lúc 6:36

Chọn đáp án: A

Bình luận (0)
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Hà Quang Minh
20 tháng 12 2023 lúc 16:35

Tác giả La Quán Trung

1. Tiểu sử

- La Quán Trung (1330 – 1400), tên La Bản, hiệu Hồ Hải tản nhân.

- Người vùng Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn Tây cũ.

- La Quán Trung sinh ra trong một gia đình quý tộc, tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước nhưng đúng khi nhà Nguyên đang suy tàn. Chí lớn không thành, ông bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân.

- Tính tình: cô độc, lẻ loi, thích một mình ngao du đây đó.

- Người có chí lớn, ôm mộng “mưu đồ sự nghiệp bá vương” nhưng không thành.

2. Sự nghiệp văn học

a. Phong cách nghệ thuật

- La Quán Trung nổi tiếng có tài văn chương, giỏi từ khúc, câu đối và kịch nhưng thể hiện rõ nhất ở tiểu thuyết.

- Ông chuyên sưu tầm và biên soạn dã sử.

b. Tác phẩm chính

- Những tác phẩm nổi bật : “Tam quốc diễn nghĩa”, “Tùy Đường lưỡng triều chí truyện”, “Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa”, “Bình yêu truyện”,…

→ Là người đầu tiên có đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử Minh – Thanh. 

Bình luận (0)
Buddy
Xem chi tiết
Thanh An
4 tháng 3 2023 lúc 18:32

Dàn ý

1. Mở bài

- Lời chào và giới thiệu bản thân.

- Giới thiệu vấn đề chính trong bài nói: đánh giá nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật Trương Phi và Quan Công trong đoạn trích Hồi trống Cổ Thành của La Quán Trung.

2. Thân bài

- Sử dụng ngôn ngữ liên kết để chuyển sang phần thân bài trong bài nói.

- Tóm tắt nội dung đoạn trích.

- Giới thiệu lần lượt về tính cách của hai nhân vật Trương Phi và Quan Công. Chú ý đặt các nhân vật vào hoàn cảnh cụ thể để làm nổi bật cách xây dựng nhân vật của tác giả.

- Đưa ra sự so sánh giữa hai nhân vật

3. Kết bài

- Nêu lên suy nghĩ của bản thân về nghệ thuật xây dựng nhân vật Trương Phi và Quan Công của tác giả.

- Gửi lời cảm ơn tới người nghe.

Bài làm

     Trương Phi và Quan Công là hai trong số các nhân vật chính trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa nổi tiếng, về đức độ của hai nhân vật này, ở bài thơ Tức cảnh, Hồ Chí Minh đã ngợi ca: Thụ sao xảo họa Trương Phi tượng - Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm (Cành lá khéo in hỉnh Dực Đức - vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công). Nhưng tính cách của họ thế nào? Đoạn trích Hồi trống cổ Thành đã phần nào cho người đọc cảm nhận được những nét tính cách có phần đối lập của hai nhân vật này.

     Nội dung của câu chuyện Hồi trống Cổ Thành được tóm tắt trong câu: “Chém Sái Dương anh em hoà giải; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”. Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính cách không thường nổi bật trong tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn, đúng mực. Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính cách khác tạo nên sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính cách đặc trưng rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người.

 

     Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không có sức thuyết phục. Người như Trương Phi không bao giờ chấp nhận và cũng khó có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất quyết liệt: “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”. Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.

     Không có lời bình luận, không miêu tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Công, lời giải thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được đẩy lên đỉnh điểm “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”. Nhân vật của tiểu thuyết cổ điển tuy có tính cách rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật bao giờ cũng minh hoạ cho tính cách và tư tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo lôgic tâm lí. Tình nghĩa anh em thuở hàn vi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung nghĩa là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích cộng đồng.

 

     Anh em Quan, Trương đoàn tụ khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay đánh trống giục giã Quan Vũ và “rỏ nước mắt thụp lạy Vân Trường” khi nỗi nghi ngờ được giải toả. Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất. Trương Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh trại mà chén rượu vẫn còn nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải là việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa bởi đó là cách duy nhất để Quan Công minh oan. Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo nên một tình huống rất đặc sắc để vừa ngợi ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan, Trương vừa bộc lộ rõ tính cách thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.

     Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo.

     Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hoá tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết cổ điển tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm không chỉ bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức mà còn bởi thế giới nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa đã trở nên rất quen thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông. Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí nhân vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính cách nhân vật bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một thế giới nhân vật đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một thời kì lịch sử dài gần một trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể hiện cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh.

 

     Chỉ với một đoạn trích Hồi trống cổ thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.

  
Bình luận (0)